Xưng vương, kiến quốc Lưu Tống Vũ Đế

Năm 415, Lưu Dụ tự cho phép mình mang kiếm lên điện chầu vua, dâng biểu không phải xưng tên, ép các quan không được gọi thẳng tên húy của mình. Sang năm sau, 416, Lưu Dụ ép hoàng đế phong cho mình làm Bình Bắc tướng quân, Thứ sử Duyện châu, Đô đốc Nam Tần châu chư quân sự, và nắm quyền cai quản 22 châu trong địa giới Tấn triều.[51].

Tháng 12 ÂL năm 418, Lưu Dụ được thăng làm Tướng quốc, Tổng bách quỹ, Dương châu mục, tiến tước Tống quốc công, được ban thực ấp gồm 10 quận là Bành Thành, Lan Lăng, Hạ Bi, Hoài Dương, Phái quận, Sơn Dương, Quảng Lăng, Cao Bình, Thái Sơn và Lỗ quận. Sang năm 419, ông ép hoàng đế thăng mình làm Tống vương, tăng thực ấp lên thành 20 quận, trong đó 10 quận mới là Hải Lăng, Bắc Đông Hải, Bắc Tiếu, Bắc Lương, Tấn Thái, Bắc Trần Lưu, Trần quận, Nhữ Nam, Dĩnh Xuyên và Huỳnh Dương.